Thị trường ngày 11/10: Giá dầu tăng mạnh gần 4%, khí tự nhiên, vàng, đồng và đường đều tăng

Tin kinh tế

Thị trường ngày 11/10: Giá dầu tăng mạnh gần 4%, khí tự nhiên, vàng, đồng và đường đều tăng

Chốt phiên giao dịch ngày 10/10, giá dầu tăng mạnh gần 4%, khí tự nhiên, vàng, đồng và đường... đều tăng, trong khi sắt thép, cao su, đậu tương, ngô và gạo... đồng loạt giảm.

Giá dầu tăng gần 4%

Giá dầu tăng, do nhu cầu sử dụng nhiên liệu tại Mỹ tăng trước khi cơn bão Milton đổ bộ vào Florida, rủi ro nguồn cung Trung Đông và dấu hiệu cho thấy nhu cầu năng lượng có thể tăng tại Mỹ và Trung Quốc.

Chốt phiên giao dịch ngày 10/10, dầu thô Brent tăng 2,82 USD tương đương 3,7% lên 79,4 USD/thùng và dầu WTI tăng 2,61 USD tương đương 3,6% lên 75,85 USD/thùng.

Tại Mỹ - nước sản xuất và tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới, cơn bão Milton đã quét qua Florida, nơi có khoảng 1/4 các trạm xăng đã bán hết xăng và cơn bão khiến hơn 3,4 triệu nhà ở và doanh nghiệp mất điện.

Ngoài ra, một động thái có thể thúc đẩy nhu cầu dầu tại nước tiêu thụ dầu lớn thứ 2 thế giới – Trung Quốc – đã công bố 1 dự thảo luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân, bước đi mới nhất của nước này nhằm tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư, trong bối cảnh kinh tế suy thoái.

Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 1%

Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 1%, do dự báo nhu cầu trong tuần này tăng cao hơn so với dự kiến trước đó. Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn New York tăng 1,5 US cent tương đương 0,6% lên 2,675 USD/mmBTU. Trong phiên trước đó, giá khí tự nhiên chạm mức thấp nhất kể từ ngày 26/9/2024.

Giá vàng tăng

Giá vàng tăng, sau khi các thương nhân đặt cược Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng tới, sau số liệu kinh tế mới nhất của Mỹ.

Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,6% lên 2.623,58 USD/ounce, rời bỏ chuỗi giảm 6 phiên liên tiếp. Vàng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn New York tăng 0,5% lên 2.639,3 USD/ounce.

Giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 9/2024 tăng hơn 1 chút so với dự kiến, song mức tăng lạm phát hàng năm thấp nhất trong hơn 3,5 năm. Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần kết thúc ngày 5/10/2024 tăng lên 258.000, cao hơn so với ước tính là 230.000.

Giá đồng tăng

Giá đồng tăng, do kỳ vọng nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc – sẽ công bố gói kích thích tài chính, nhằm thúc đẩy nhu cầu kim loại.

Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,6% lên 9.734,5 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất hơn 2 tuần trong phiên trước đó.

Ngoài ra, giá đồng còn được hỗ trợ bởi đồng USD thu hẹp mức tăng, sau khi số liệu lạm phát của Mỹ được công bố. Đồng USD tăng mạnh khiến hàng hóa được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt hơn đối với khách hàng thanh toán bằng tiền tệ khác.

Giá quặng sắt và thép tiếp đà giảm

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm trở lại, từ bỏ mức tăng trước đó, do sự không chắc chắn xung quanh kế hoạch kích thích tài chính của nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc, song nhu cầu mùa vụ đối với sản phẩm thép tăng đã hạn chế đà suy giảm.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên giảm 1,02% xuống 775,5 CNY (109,65 USD)/tấn. Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Singapore giảm 0,65% xuống 104,2 USD/tấn.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,66%, thép cuộn cán nóng giảm gần 0,9%, thép không gỉ giảm 0,57% và thép cuộn duy trì ổn định.

Giá cao su tại Nhật Bản giảm

Giá cao su tại Nhật Bản giảm, chịu ảnh hưởng bởi sự lạc quan xung quanh gói kích thích kinh tế tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – giảm dần, song mức giảm được hạn chế bởi đồng JPY suy yếu.

Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn Osaka (OSE) giảm 8,5 JPY tương đương 2,09% xuống 397,5 JPY (2,67 USD)/kg. Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải giảm 1.155 CNY tương đương 6,02% xuống 18.045 CNY (2.551,36 USD)/tấn.

Giá cao su butadien kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 1.110 CNY tương đương 6,75% xuống 15.340 CNY (2.168,9 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Singapore giảm 4,8% xuống 192,3 US cent/kg.

Giá cà phê tăng tại London và New York

Hoạt động giao dịch cà phê tại Việt Nam diễn ra chậm chạp, do nguồn cung thắt chặt và cà phê vụ mới không có nhiều. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 112.800-113.500 VND (4,54-4,57 USD)/kg, giảm so với 116.200 – 117.200 VND/kg 1 tuần trước đó.

Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2024 đạt 1,1 triệu tấn, giảm 11,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm tăng 37,8% so với cùng kỳ năm ngoái lên 4,3 tỉ USD.

Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn London.

Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 tăng 1% lên 4.914 USD/tấn.

Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 4,7 US cent tương đương 1,9% lên 2,5475 USD/lb, sau khi tăng 0,7% trong phiên trước đó.

Giá đường tăng

Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn ICE tăng 0,12 US cent tương đương 0,5% lên 22,16 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tuần (21,77 US cent/lb) trong phiên trước đó. Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn London tăng 0,5% lên 566,7 USD/tấn.

Giá lúa mì tăng, đậu tương và ngô giảm

Giá lúa mì tại Chicago tăng, khi các thương nhân xem xét liệu căng thẳng giữa Nga và Ukraine gia tăng và tình trạng khô hạn tại các khu vực trồng ngũ cốc trên thế giới kéo dài, có thể hạn chế xuất khẩu lúa mì toàn cầu hay không?

Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 4-3/4 US cent lên 6,03-3/USD/bushel – tăng phiên thứ 4 liên tiếp. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 5-1/2 US cent xuống 10,14-3/4 USD/bushel và giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 2-1/2 US cent xuống 4,18-1/2 USD/bushel.

Giá gạo đồng loạt giảm tại Ấn Độ, Việt Nam và Thái Lan

Giá gạo tại các trung tâm lớn của châu Á giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 năm, chịu áp lực giảm bởi nhu cầu chậm lại và nguồn cung tăng, sau khi nước xuất khẩu hàng đầu - Ấn Độ - gần đây đã nới lỏng các hạn chế đối với xuất khẩu mặt hàng chủ lực này.

Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 490-495 USD/tấn – thấp nhất kể từ 24/8/2023, giảm so với 494-498 USD/tấn 1 tuần trước đó, trong bối cảnh nhu cầu yếu và đồng rupee mất giá.

Tháng trước, Ấn Độ cắt giảm thuế xuất khẩu gạo đồ xuống 10% và cho phép xuất khẩu gạo trắng không phải gạo basmati với giá sàn là 490 USD/tấn.

Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 538 USD/tấn, giảm so với 552 USD/tấn 1 tuần trước đó. Đây là mức thấp nhất kể từ tháng 7/2023. Xuất khẩu gạo của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2024 tăng 8,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên 6,99 triệu tấn.

Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm xuống 510 USD/tấn so với 510-515 USD/tấn 1 tuần trước đó – mức thấp nhất kể từ tháng 6/2023.

Giá dầu cọ giảm tiếp

Giá dầu cọ tại Malaysia giảm, do hoạt động bán ra chốt lời gây áp lực thị trường sau khi Ủy ban Dầu cọ Malaysia (MPOB) công bố số liệu cung cầu.

Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Bursa Malaysia giảm 17 ringgit tương đương 0,4% xuống 4.235 ringgit (987,64 USD)/tấn. Trong phiên có lúc giá dầu cọ tăng 0,78%, sau khi giảm 2,49% trong 3 phiên liên tiếp.

Theo Minh Quân (Nhịp sống Thị trường)
 
Lượt xem: 42
Họ tên*
Địa chỉ Email*
Tiêu đề*
Nội dung*